Câu hỏi thảo luận 1

Bài thảo luận nhóm 4 YTCC17-1B4

Bài thảo luận nhóm 4 YTCC17-1B4

by DƯƠNG VĂN HẢI -
Number of replies: 0

Họ và tên nhóm 4:

1.      Nguyễn Thị Minh. Mã SV 2137010106.Lớp YTCC17-1B4 Thái Nguyên

2.      Vũ Thị Kiều Minh Mã SV 2137010107.Lớp YTCC17-1B4 Thái Nguyên

3.      Dương Văn Hải . Mã SV 2137010099. Lớp YTCC17-1B4 Thái Nguyên

4.      Dương Thị Loan. Mã SV 2137010104 . Lớp YTCC17-1B4 Thái Nguyên

5.      Nguyễn Thu Huyền. Mã SV 2137010101. Lớp YTCC17-1B4 Thái Nguyên

6.      Tạ Nguyễn Ngọc Nguyên. Mã SV 2137010110.Lớp YTCC17-1B4 Thái Nguyên

7.      Hoàng Thùy Linh. Mã SV 2137010102.Lớp YTCC17-1B4 Thái Nguyên

8.      Nguyễn Lương Thiệu. Mã SV 2137010115 Lớp YTCC17-1B4 Thái Nguyên

CÂU HỎI THẢO LUẬN

Những thành tựu về Quản lý nhân lực y tế tại Việt Nam?

Trả Lời

Nhân lực ngành Y tế bao gồm bác sĩ, y tá, nữ hộ sinh, dược sĩ… là thành phần vô cùng quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ y tế có chất lượng, hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân (UHC) và đạt được các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) liên quan đến sức khỏe.

Đội ngũ nhân lực y tế đa chuyên ngành, có chuyên môn tốt có khả năng cung cấp các dịch vụ y tế chất lượng cao và lấy người dân làm trung tâm là vô cùng cần thiết để đáp ứng nhu cầu y tế đang thay đổi tại Việt Nam, đặc biệt là sự gia tăng của các bệnh không lây nhiễm và già hóa dân số.

Trong công cuộc cải cách hệ thống Y tế tại Việt Nam, một trong những việc trọng tâm là tập trung xây dựng nhân lực ngành Y tế.

Cụ thể, cần xây dựng đôi ngũ cán bộ y tế có trình độ, đặc biệt ở tuyến cơ sở; có cơ chế chính sách đảm bảo chất lượng chuyên môn y tế và chất lượng đào tạo tại các trường đại học y; và đảm bảo mức lương xứng đáng cho các cán bộ y tế.

Tại Việt nam, số lượng các cơ sở đào tạo y tế và sinh viên y khoa tốt nghiệp đã tăng lên nhanh chóng trong hai thập kỷ qua. Số lượng trường đại học có đào tạo bác sĩ đã tăng gần gấp đôi kể từ năm 1997, từ 09 trường lên đến tổng số hiện tại là 17 trường. Số lượng bác sĩ mới tốt nghiệp hàng năm đã tăng gần gấp ba lần sau một thập kỷ.

1. Điểm sáng trong công tác phòng chống COVID-19

Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là quốc gia thành công nhất trong phòng, chống dịch COVID-19, huy động được toàn bộ hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tham gia phòng chống COVID-19 với chi phí thấp nhất.

Với chiến lược “ngăn chặn, phát hiện, cách ly, khoanh vùng, dập dịch và điều trị”, Việt Nam đã thực hiện được cách ly cho hơn 730.000 người; thực hiện xét nghiệm cho 1,7 triệu người; triển khai 1608 điểm chốt biên giới với gần 10.000 người bám biên từ Tết Canh Tý đến nay.

Việt Nam là một trong bốn quốc gia đầu tiên phân lập được virus corona chủng mới. Chỉ trong một thời gian ngắn Việt Nam đã chủ động sản xuất được máy thở, sinh phẩm chẩn đoán và bắt đầu thử nghiệm vaccine ngừa COVID-19.

Tính đến ngày 30/12/2020, Việt Nam có tổng cộng 1.454 bệnh nhân mắc COVID-19, có tỷ lệ ca mắc COVID-19 trên 1 triệu dân thuộc loại thấp nhất thế giới.

2. Ngày Quốc tế sẵn sàng phòng chống dịch bệnh 27/12

Liên Hợp Quốc đã thông qua đệ trình của Việt Nam về ngày Quốc tế sẵn sàng phòng chống dịch bệnh 27/12. Đây là nghị quyết đầu tiên của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (ĐHĐ LHQ) trong lĩnh vực này, cũng là nghị quyết đầu tiên do Việt Nam chủ trì đề xuất, thương lượng và thúc đẩy thông qua thành công tại ĐHĐ LHQ.

3. Nâng cao sức khỏe toàn dân trong lĩnh vực y tế dự phòng

Bên cạnh phòng, chống dịch COVID-19, ngành Y tế chủ động phòng chống, các bệnh truyền nhiễm khác, đặc biệt là dịch bạch hầu ở khu vực Tây Nguyên, bệnh Whitmore ở miền Trung, bệnh sốt mò ở một số tỉnh miền Bắc, không để “dịch chồng dịch”. Dịch bệnh HIV/AIDS tiếp tục được kiểm soát, năm 2020 là năm thứ 12 liên tiếp giảm cả 3 tiêu chí: số người nhiễm mới HIV, số người chuyển sang giai đoạn AIDS và tử vong liên quan đến AIDS.

4. Triển khai Đề án “Khám chữa bệnh từ xa”, kết nối 1000 điểm trong 45 ngày

Tính đến cuối năm 2020 hơn 1.500 cơ sở y tế đã được kết nối. Đề án mở ra một giai đoạn mới trong chẩn đoán và điều trị, với hai mục tiêu là tất cả cơ sở y tế, nhất là tuyến huyện, được hỗ trợ chuyên môn liên tục; mọi người dân đều được hỗ trợ y tế thường xuyên và khi cần thiết.

5. Phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ y tế, xây dựng các văn bản pháp luật về đổi mới căn bản, toàn diện

Năm 2020, ngành Y tế đã thành lập Hội đồng Y khoa Quốc gia, Trung tâm thi đánh giá năng lực hành nghề. Triển khai nghiên cứu và sản thành công Kit realtime RT-PCR, Test Elisa phát hiện SARS-CoV-2 và các sinh phẩm xét nghiệm và vaccine phục vụ phòng chống COVID-19. Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành thử nghiệm lâm sàng vaccine phòng chống COVID-19 trên người.

6. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý y tế, khám chữa bệnh

Bộ Y tế đã khai trương Cổng Công khai Y tế với dữ liệu trong các lĩnh vực: 62.438 dược phẩm, 28.000 trang thiết bị - vật tư y tế, 93.253 kết quả đấu thầu và hơn 1.400 cơ sở y tế công khai giá dịch vụ; Mạng Y tế Việt Nam (mạng nội bộ kết nối 100% cán bộ y tế toàn quốc).

Mạng Y tế cơ sở - V20 (nền tảng kết nối, chia sẻ dữ liệu y tế cơ sở, dùng chung cho 10.600 trạm y tế xã); 98 triệu hồ sơ sức khỏe được Bộ Y tế và Bảo hiểm Xã hội thành lập trong 5 tháng để chuẩn bị cho việc khám, chữa bệnh không dùng giấy.

Tính đến cuối năm 2020, 100% bệnh viện đã triển khai hệ thống thông tin bệnh viện: 8 bệnh viện đã công bố sử dụng bệnh án điện tử thay bệnh án giấy, 20 bệnh viện sử dụng hệ thống lưu trữ và truyền tải hình ảnh y tế (PACS) không in phim. Xây dựng hệ thống tư vấn khám, chữa bệnh từ xa - telemedicine, kết nối vạn vật y tế - IoMT.

7. Cả nước chung tay phòng chống dịch bệnh, thiên tai

20 tỷ tin nhắn (SMS) với những khuyến cáo phòng, chống dịch, kêu gọi sẻ chia đã được Bộ Y tế, Bộ Thông tin Truyền thông và các doanh nghiệp viễn thông gửi tới người dân trong thời gian phòng, chống COVID-19.

Tính đến cuối tháng 8/2020, hơn 2.200 tỷ đồng đã được người dân và các doanh nghiệp ủng hộ thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để giúp đỡ các lực lượng chống dịch.

Trong cộng đồng lần đầu tiên xuất hiện những hình thức sẻ chia hiệu quả như ATM gạo, ATM khẩu trang... Tinh thần đùm bọc, tương thân tương ái đó tiếp tục được mở rộng trong đợt thiên tai tại Miền Trung năm vừa qua.

8. Duy trì bền vững mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con) trong suốt 14 năm qua

Đạt và duy trì bền vững mức sinh thay thế như hiện nay, dân số sẽ ổn định, góp phần làm giảm mất cân bằng giới tính khi sinh, kéo dài giai đoạn dân số vàng, làm chậm lại quá trình già hóa dân số và cải thiện chất lượng dân số, góp phần vào sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

Trong năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 5 chương trình về công tác Dân số, gồm: Chương trình truyền thông dân số đến năm 2030; Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp với vùng đối tượng đến 2030; Chương trình củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ KHHGĐ đến năm 2030; Chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030; Chương trình mở rộng tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh tật trước sinh và sơ sinh đến năm 2030.

Mạng lưới y tế cơ sở

Mạng lưới y tế cơ sở hiện nay đã bao phủ toàn quốc. Hệ thống tổ chức y tế tại tuyến xã, tuyến huyện, tuyến tỉnh đang được đổi mới toàn diện và đồng bộ để hội nhập và phát triển. Nhiều trạm y tế xã cũng được đầu tư nâng cấp và xây dựng mới từ nguồn ngân sách địa phương và nguồn viện trợ. Hiện nay y tế cơ sở đã mở thêm nhiều dịch vụ hơn, bước đầu triển khai phòng chống một số bệnh không lây nhiễm dựa vào cộng đồng. Bên cạnh đó, Bộ Y tế cũng đã xây dựng và phát triển mô hình phòng khám bác sỹ gia đình từ năm 2013, sau 2 năm có 240 phòng khám bác sỹ gia đình được thành lập và đi vào hoạt động...

“Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng người bệnh”

Các biện pháp đã được triển khai hiệu quả gồm: Xây dựng môi trường thân thiện, thủ tục nhanh gọn; Đầu tư nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; Giảm quá tải bệnh viện. Đến nay, Đề án đã tạo ra sự chuyển biến tích cực, tạo được sự tin tưởng của người dân và thay đổi thái độ phục vụ trong lĩnh vực y tế.

Đổi mới cải cách cơ chế tài chính trong y tế

Trong giai đoạn 2011-2015, chi NSNN cho y tế đạt 7.52% tổng chi NSNN bao gồm cả trái phiếu Chính phủ. Tốc độ tăng chi ngân sách cho y tế cao hơn tốc độ tăng chi trung bình của NSNN. Giá dịch vụ khám chữa bệnh giữa các bệnh viện cùng hạng được thực hiện theo lộ trình tính đúng tính đủ giá dịch vụ y tế nhằm giúp các cơ sở KCB có thêm nguồn thu trang trải các chi phí phục vụ người bệnh.